BÁC HỒ VỚI THANH NIÊN - THANH NIÊN VỚI BÁC HỒ: Lời kêu gọi thanh niên Nam bộ
|
|
|
|
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp và Mỹ là cuộc đấu tranh rất phức tạp, gian khổ và lâu dài, nhưng tuyệt nhiên không làm nhân dân ta chùn bước, mà trái lại càng thôi thúc nhân dân ta quyết tâm chiến đấu giành lại toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho nhân dân Nam bộ, đặc biệt là thanh niên một tình cảm yêu thương, trìu mến, Người gửi gắm cho lớp trẻ miền Nam nhiều tình cảm. Ban Biên tập website Tỉnh Đoàn xin giới thiệu với các bạn "Lời kêu gọi thanh niên Nam Bộ" của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào ngày 30/10/1945 - một tháng sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra:
Lời kêu gọi thanh niên Nam bộ
Hỡi anh chị em thanh niên Nam Bộ!
Đã hơn một tháng nay, anh chị em đã phấn đấu cực kỳ anh dũng. Toàn thể đồng bào Việt Nam đều cảm động. Tuy máu đã đổ nhiều, nhưng tôi chắc và toàn thể đồng bào cũng chắc rằng anh chị em thanh niên Nam Bộ quyết hy sinh kháng chiến để giữ vững nền độc lập của nước nhà.
Trong cuộc chống xâm lăng này, các bạn đã là bức Vạn Lý Trường Thành vững chắc. Các bạn phải thống nhất mặt trận thanh niên, đoàn kết, nêu cao tinh thần tin tưởng ở sức mạnh của dân tộc. Những gương hy sinh anh dũng của các bạn đã sáng dọi khắp nước.
Những chiến công oanh liệt của các bạn đã làm cho toàn thể đồng bào thêm kiên quyết.
Hỡi anh chị em thanh niên Nam Bộ!
Tôi thề cùng các bạn giữ vững nền độc lập tự do của nước Việt Nam. Dẫu có phải hy sinh đến nửa số dân tộc, ta cũng quyết hy sinh. Cuộc kháng chiến tự vệ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam phải toàn thắng.
Tinh thần kháng chiến anh dũng của thanh niên Nam Bộ muôn năm!
Việt Nam độc lập muôn năm!
Ngày 30 tháng 10 năm 1945
HỒ CHÍ MINH
|
Đoàn viên thanh niên và nhiều người đều thuộc lời dạy của Bác Hồ với thanh niên “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển,...
Tác giả Trần Thị Lợi kể lại câu chuyện về Bác Hồ rằng “ở Việt Bắc, mỗi lầnBác đi công tác thường có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt hai đồng chí muốn mang hộ ba lô cho Bác. Bác nói“Điđường rừng leo núi ai cũng mệt, tập trung cho một người mang thì người đó càng chóng mệt,chi bằng chia ra mỗi người mang một ít. Khi mọi thứ được chia đều vào ba chiếc ba lô rồi Bác còn hỏi “Các chú chia đều rồi chứ?” “Thưa bác đều rồi ạ”. Đi được một đoạn, Bác đến chỗ đồng
chí bên cạnh xách chiếc ba lô lên “ Sao ba lô của chú nặng hơn ba lô của Bác?” Bác nhất định đòi mở ba chiếc ba lô ra chia lại và nói “Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.”(Tác phẩm “Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh.NXB Chính trị Quốc gia. H. 2007).
Trong cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam. Bác đã dành rất nhiều tâm huyết cho việc tổ chức, dẫn dắt các thế hệ thanh niên đến với cách mạng, tham gia vào quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc…
Cuối năm 1924, sau khi tham dự Quốc tế Cộng sản từ Liên Xô về, Bác Hồ đã tới Quảng Châu (Trung Quốc), trực tiếp lựa chọn những thanh niên ưu tú trong tổ chức “Tâm tâm xã” và một số thanh niên có chí hướng và tinh thần cách mạng trong nước vừa vượt biên giới sang Trung Quốc, để mở các lớp huấn luyện chính trị, trang bị cho họ những bài học về kiến thức cách mạng, về chủ nghĩa Mác - Lê nin, về những phương pháp đấu tranh cách mạng; đào tạo họ trở
thành những cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước sau này. Những thanh niên cách mạng ưu tú trên đồng thời đã là những hạt nhân để tiến tới việc thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt nam sau này.Luôn nhấn mạnh đến việc học tập, vấn đề cốt lõi để các thế hệ thanh niên trang bị cho mình sự hiểu biết, vốn kiến thức, một trong những điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho các thế hệ thanh niên có thể tham gia hoạt động cách mạng, phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; trong thời gian hoạt động bận rộn nhất trong những ngày chuẩn bị cho cao trào cách mạng trong nước, Bác Hồ vẫn dành thời gian chỉ đạo thành lập “Hội truyền bá Quốc ngữ” để tổ chức dạy học chữ quốc ngữ và tạo ra phong trào sâu rộng, vận động các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các thế hệ thanh thiếu niên tham gia học tập chữ quốc ngữ; nhờ đó giúp thế hệ trẻ nhanh chóng tiếp cận sách báo cách mạng, có đủ kiến thức để làm hành trang tham gia phong trào cách mạng và sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đồng thời với việc nhấn mạnh đến vấn đề học tập của các thế hệ thanh, thiếu niên, Bác Hồ cũng đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho họ. Theo Bác, bên cạnh việc có đủ trình độ, kiến thức để có thể tham gia cách mạng, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thì thế hệ trẻ cũng không thể thiếu việc tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng. Bởi nếu không có đạo đức cách mạng thì không thể trở thành người cách mạng chân chính, và không thể phục vụ tốt cho dân, cho nước. Trong bài phát biểu của mình tại Hội nghị Cán bộ toàn miền Bắc (tháng 9- 1962), Bác đã nhấn mạnh: “Thanh niên cần phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng” Người cũng chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt như sau: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với giai cấp”. Riêng đối với thanh niên, Bác dặn thêm: Phải không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên có, việc khó có thanh niên, gặp gian khổ phải đi lên phía trước, khi hưởng thụ phải hưởng thụ sau mọi người.
Trong những năm miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ xây dựng đất nước, xây dựng hậu phương lớn, tất cả cho tiền tuyến miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, Bác Hồ càng nhấn mạnh đến việc giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ, trang bị cho họ những kiến thức khoa học tiên tiến để trở thành chủ nhân của đất nước, giúp họ có thể làm chủ các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn đấu tranh mới.
Căn dặn thanh niên cần vươn lên, làm chủ khoa học kỹ thuật để phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Bác nhấn mạnh: “Nếu không chịu khó học tập thì không tiến bộ mà chỉ có thoái bộ. Xã hội ngày càng phát triển, công việc ngày càng phức tạp, máy móc ngày càng tinh xảo. Mình mà không chịu học tập thì sẽ bị lạc hậu, mà lạc hậu cũng chính là bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Người viết thư căn dặn thế hệ trẻ “cần ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và quân sự để có thể cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân”.
Bác nói"Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?".
Thấm nhuần lời dạy của Bác, ngày nay hơn lúc nào hết, khi toàn Đảng toàn dân ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các thế hệ thanh thiếu niên cần ra sức rèn luyện, học tập nâng cao mọi mặt trình độ, kiến thức, làm chủ khoa học công nghệ, đặc biệt là trau dồi, tu dưỡng đạo đức cách mạng, trở thành những người “Vừa hồng vừa chuyên” như lời Bác dạy, để xứng đáng là những chủ nhân của đất nước trong thời kỳ mới.
Chú còn trẻ, chú vào hầm trú ẩn trước đi
Một ngày tháng 7-1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.
Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýcxămbua, Môngpacnát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều... Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm.
Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.
- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.
Bác quay lại đồng chí Bộ, nói:
- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.
Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí cảnh vệ.
Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.
5 ÐIỀU BÁC HỒ DẠY THANH NIÊN (2/9/1965)
1. Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đầu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống mỹ, cứu nước.
2. Phải tin tưởng sạu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân. Tăng cường đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
3. Luôn luôn trao dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị. Chống kiêu căng, tự mãn. Chống lãng phí, xa hoa. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi.
4. Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.
5. Luôn luôn chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên và nhi đồng, làm gương tốt về mọi mặt cho đàn em noi theo.
5 điều này được Bác viết trong "Thư gửi Thanh niên" ngày 2/9/1965.
THƯ GỬI THANH NIÊN
Các cháu thanh niên thân mến,
Ngày 2 tháng 9 năm nay, chúng ta chúc mừng lần thứ 20 Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 20 tuổi. Nhiều cháu thanh niên gái và trai năm nay cũng vừa đúng hoặc xấp xỉ tuổi 20.
Nhân dịp này, Bác thân ái chúc mừng các cháu thanh niên trong cả nước và Bác có mấy lời nhắn nhủ các cháu như sau:
Hai mươi năm trước đây, thực dân Pháp cùng bọn vua quan phong kiến còn thống trị nước ta, dân ta còn là những người nô lệ.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã giải phóng 25 triệu đồng bào ta. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập là Nhà nước đầu tiên của nhân dân ta. Từ đó nhân dân ta làm chủ đất nước của mình, cùng nhau ra sức xây dựng cuộc đời độc lập, tự do, hạnh phúc.
Nhưng thực dân Pháp lại đến xâm lược nước ta một lần nữa. Đồng bào cả nước ta từ Nam đến Bắc đã kháng chiến cực kỳ anh dũng trong suốt chín năm. Cuối cùng chúng ta đã đánh thắng thực dân Pháp và bè lũ bù nhìn. Hoà bình được lập lại. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng đã chuyển sang một giai đoạn mới: Giai đoạn Cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
Mười một năm qua, miền Bắc ta xây dựng không ngừng, ngày càng đổi mới. Chúng ta đã xoá bỏ chế độ người bóc lột người, nhân dân lao động hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình, cùng nhau xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã thu được nhiều thành tích rực rỡ.
Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, thanh niên ta ở miền Bắc được sự giáo dục của Đảng và sự dìu dắt của Đoàn đã tỏ ra rất xứng đáng là thế hệ của Cách mạng Tháng Tám vẻ vang. Đại đa số các cháu thanh niên đều hăng hái thi đua trên mọi mặt trận: nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hoá, y tế, v.v...
Cũng trong mười một năm qua, dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đồng bào miền Nam ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng, ngày nay đang liên tiếp đánh mạnh kẻ địch trên khắp các chiến trường và đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang.
Hơn một năm nay, đế quốc Mỹ và bọn tay sai càng điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam và mở rộng chiến tranh đến miền Bắc, gây thêm đau thương tang tóc cho đồng bào ta. Quân và dân ta ở cả hai miền một lòng chống Mỹ, cứu nước, đã chiến đấu anh dũng vô cùng, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay, theo tiếng gọi của Tổ quốc, thanh niên cả nước ta càng giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều thành tích xuất sắc.
Tình cảm của Bác Hồ dành cho thanh niên
3/25/2009 6:11:18 PM
Nếu con người là động lực và mục tiêu cuối cùng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì thanh niên chính là một lực lượng xã hội to lớn trong nguồn nhân lực đó.
Thanh niên quyết định tương lai, vận mệnh của một dân tộc. Tuy nhiên, do tuổi trẻ, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên thanh niên rất cần sự chăm lo của toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dành cho tuổi trẻ Việt Nam tình cảm sâu nặng và sự quan tâm đặc biệt.
Ngay từ những năm đầu tham gia hoạt động cách mạng, Bác nhanh chóng tập hợp sức mạnh của thanh niên vào tổ chức “Thanh niên Cách mạng đồng chí hội” (1925) (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam), ra Báo “Thanh niên” - tờ báo cách mạng đầu tiên trong nước để tuyên truyền, giác ngộ, giáo dục, rèn luyện thanh niên.
Đầu năm 1947, dù bộn bề công việc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng khi hay tin học sinh Vũ Chí Thành, thành viên đội cảm tử “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” hy sinh tại Hà Nội, Bác đã viết thư chia buồn với Bác sĩ Vũ Đình Tụng - cha liệt sĩ với lời lẽ hết sức cảm động, thắm thiết: “Ngài biết rằng, tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và các thanh niên anh em khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước, thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn sống mãi với non sông Việt Nam” (1).
Từ đó cho đến cuối đời, Bác luôn dành cho thanh niên Việt Nam những tình cảm thương yêu trìu mến và những lời dạy bảo ân cần.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Bác luôn theo dõi phong trào thanh niên, khi tuổi trẻ lập được chiến công, Bác khen ngợi, động viên: Các cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu là anh hùng trong sự nghiệp cách mạng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn (1956), Bác Hồ đến dự và ân cần dặn dò đoàn viên, học sinh, sinh viên: “Phải xung phong trong mọi công tác, xung phong là phải đi trước, làm trước... Phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp để tiến bộ mãi, để sẵn sàng trở thành cán bộ tốt, đảng viên tốt. Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh, khỏe mạnh thì mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân” (2). Xúc động trước những tình cảm thương yêu, lo lắng của Bác, các đại biểu đã hứa với Bác sẽ ra sức thực hiện tốt những lời Bác dạy, quyết không một phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta.Năm 1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Bác đến thăm và nói chuyện, Bác đưa ra phương hướng hoạt động cho công tác Đoàn, đồng thời nêu ra khẩu hiệu: “Đâu cần thì thanh niên có; việc gì khó thanh niên làm” (3).
Năm 1961, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III tổ chức tại Hà Nội, Bác dạy: “Thanh niên phải cố gắng học, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có học thức. Cần phải có văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày... Học đi đôi với hành” (4). Những lời dạy của Bác thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hậu bị cho Đảng.
Năm 1966, tại buổi lễ kỷ niệm 35 năm Ngày thành lập Đoàn, Bác khẳng định niềm tin và niềm lạc quan vào thế hệ trẻ: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy, Bác rất tự hào, sung sướng và thấy mình trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc vô cùng vững chắc và vẻ vang” (5).
Có thể nói, tình cảm Bác Hồ dành cho thanh niên Việt Nam bao la như trời biển, như cha đối với con, Bác đối với cháu... Tình cảm ấy mãi khắc sâu vào trong trái tim của từng thế hệ trẻ Việt Nam. Đau đớn thay, Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Vĩnh biệt chúng ta, Bác Hồ để lại cho thế hệ trẻ “muôn vàn tình thân yêu”. Bác dặn dò: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” (6).
Làm theo lời Bác, dưới sự lãnh đạo trực tiếp và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, thanh niên ngày nay đang ra sức học tập, tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức nhân loại. Họ đã, đang và sẽ làm rạng rỡ non sông đất nước ta.
Để xứng đáng hơn nữa với tình cảm, niềm tin của Đảng và Bác Hồ kính yêu, thế hệ trẻ Việt Nam hãy cố gắng rèn đức, luyện tài, chấp nhận và vượt qua thử thách, bởi không có người thất bại, chỉ có người không biết cố gắng mà thôi. Có như vậy, thanh niên Việt Nam mới cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
-------------------------------------------- (1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2002, tập 5, tr.40 (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2000, tập 8, tr.263, 264 (3) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2002, tập 10, tr.489 (4) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2002, tập 10, tr.306 (5) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2002, tập 12, tr.66-67(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, HN, 2002, tập 12, tr.550
TRỊNH THÙY LAM (Theo HGO)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
3/21/2009 6:29:12 PM
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam! Muốn giữ vững nền độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó, theo Người, "người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế độ thực dân phong kiến "đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới là đạo đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng... chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi về kiến thức chuyên môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Do đó, theo Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta".
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là có tất cả". Người viết:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".
Là Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín nhảm", "bớt đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh".
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học...
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ: "Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh, viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải xuất phát từ người đọc, người nghe.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt".
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm... Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy: "Mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội... đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Trịnh Doãn Chính
Theo: Tạp chí Triết học